Sơn quang vật thái lộng xuân huy,
Mạc vị khinh âm tiện nghĩ quy.
Túng sử tình minh vô vũ sắc,
Nhập vân thâm xứ diệc triêm y.
山中留客
山光物態弄春暉
莫為輕陰便擬歸
縱使晴明無雨色
入雲深處亦沾衣
Trong núi lưu làm khách
(Dịch thơ: Chi Nguyen)
Nắng xuân vạn vật sáng ngời.
Mây mù phủ nhẹ, tạm rời bước chân.
Trời quang mưa sắp tạnh dần.
Mưa nào ướt áo, khuất lần mây xa.?
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Trương Húc 張旭 (khoảng 658-747) tự Bá Cao 伯高, người Ngô Huyện, tỉnh Giang Tô. Năm Khai Nguyên làm quan đến Thường thục uý, về sau thăng đến Kim ngô trưởng sử, người đời thường gọi là Trương trưởng sử.
Ông là một nhà thư pháp, chuyên lối chữ thảo, người đời xưng là Thảo thánh. Ông cùng Hạ Tri Chương, Trương Nhược Hư và Bão Dung được người đương thời gọi là Ngô trung tứ sĩ. Trương Húc đặc biệt nổi tiếng với lối cuồng thảo, cùng với Hoài Tố 懷素 cùng thời được người đời xưng tụng là “Cuồng thảo nhị tuyệt”, hay “Điên Trương tuý Tố”. Tương truyền, ông đã lấy cảm hứng từ những màn múa kiếm của Công Tôn đại nương rồi đưa vào phong cách viết đặc biệt của mình.
Nguồn: Thi Viện



